0 - 1,450,000 đ        

GIỚI THIỆU LỊCH SỬ Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

 

Tháng Mười 22, 2013

LỊCH SỬ Y HỌC CỔ TRUYỂN VIỆT NAM

MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài này học sinh phải:
1. Nêu lên được những bước phát triển của Y học Việt Nam qua mỗi thời kỳ và moi triều đại về mặt học thuật và lý luận.
2. Liệt kê được những tác phẩm y học mang đậm bản sắc Y học cổ truyền Việt Nam.


Để phục vụ cho mục đích học tập, bài giảng này gồm 3 nội dung như sau:
– Y học cổ truyền Việt Nam thời Cổ đại (từ đầu thế kỷ I – thế kỷ III sau công nguyên (CN)).
– Y học cổ truyền Việt Nam thời Trung đại (từ thế kỷ III – thế kỷ thứ XVII sau CN).
– Y học cổ truyền Việt Nam thời Cận đại (từ thế kỷ XVII – thế kỷ XX sau CN).

1. THỜI CỔ ĐẠI (TỪ ĐẦU THẾ KỶ I – THẾ KỶ III SAU CNT)
Chỉ được ghi nhận dưới hình thức kinh nghiệm và có lẽ do sống trong khu vực nhiệt đới gió mùa, dễ mắc các bệnh sốt rét, bệnh thời khí và bệnh nhiễm trùng đường ruột nên ngưòi Việt cổ có nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng thuốc dưới dạng các thức ăn uống và trong sinh hoạt như: trầu, cau, gừng, hành, tỏi, ớt, riềng, ý dĩ, vôi, chè xanh, chè vằng và biết phòng sâu răng bằng tập tục nhuộm răng đen.

2. THỜI TRUNG ĐẠI (THẾ KỶ III – THẾ KỶ XVII SAU CN)
Dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ Trung đại dưới nền đô hộ của các triều đại Hán – Nguỵ – Tấn – Tống – Tề – Lương – Tuỳ – Đường (179 tr. CN – 938 sau CN). Dưới ách đô hộ này, có lẽ ngưòi Việt Nam thuộc tầng lớp trên đã được giới thiệu một nền y học kinh điển thông qua các thầy thuốc đến từ Trung Quốc như Đổng Phụng (187 – 226), Lâm Thắng (479 – 501).

Trong giai đoạn này, một số dược liệu của Việt Nam đã được ghi vào Dược điển của Trung Quốc như:
– Ý dĩ, Sắn dây (Danh Y biệt lục).
– Đậu khấu (Hải Nam bản thảo – đòi Đưòng).
– Sử quân tử (Bản thảo khai bảo – đòi Tống).
– Sả (Bản thảo thập di).
– Trầu, Cau (Tô cung bản thảo).
– Hương bài, Kho qua, Bí ngô, Lưòi ươi (Bản thảo cương mục).

2.1 Thời nhà Ngô – Đinh – Lê – Lý (938 – 1224)
Nền y học Việt Nam, ngoài tính chất kinh nghiệm còn mang thêm tính chất tôn giáo do Đạo giáo và Phật giáo phát triển mạnh mẽ dưới các triều đại này. Điển hình là năm 1136, thầy thuốc Nguyễn Minh Không chữa bệnh điên cho vua Lý Thần Tông bằng bùa chú.

2.2. Thời nhà Trần – Hổ – Hậu Lê (1225 – 1788)
Từ thời nhà Trần trở đi, Nho giáo phát triển mạnh, trong đó có Chu Văn An và Trương Hán Siêu là hai ngưòi khởi xướng phong trào chống mê tín dị đoan trong cả nước và chính lúc ấy nền y học Việt Nam mới có điều kiện vươn lên.
Song cũng vì sự gắn bó quá chặt chẽ về mặt văn hoá tư tưởng với Trung Quốc nên nền y học Việt Nam cũng chỉ phát triển trên nền tảng lý luận Trung y. Do đó, trong suốt thời kỳ này các danh nhân y học Việt Nam cũng chỉ để lại cho hậu thế những trước tác như:
– Châm cứu tiệp hiệu diễn ca của Nguyễn Đại Năng (đời nhà Hồ) trong đó có bổ sung thêm huyệt Nhũ ảnh, Bôi lam chữa sốt rét; Trực cốt chữa hư lao; Quân dần, Phục nguyên chữa động kinh.
– Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực (1455) với kinh nghiệm chữa sởi và đậu mùa.
– Y học yếu giải tập chú di biên của Chu Doãn Văn (1466) bàn về thuỷ hoả và ngoại cảm.
– Nhãn khoa yếu lược của Lê Đức Vọng (đòi Lê) bàn về phép chữa các chứng đau mắt, đặc biệt là đau mắt hột và lông quặm.
– Bảo sinh diên thọ toản yếu của Đào Công Chính (1676) bàn về các phương pháp vệ sinh the chất và tâm thần.
– Tạ Thị chuẩn đích y ước của Tạ Chất Phác (đòi Lê) bàn về cách sử dụng các phương thuốc chữa bệnh Nội – Nhi – Sản.
Đặc biệt dưới thời nhà Trần, trong lúc triều đình và giới quan lại quyền quý sính dùng thuốc Bắc thì một thầy thuốc là Tuệ Tĩnh với tinh thần độc lập tự chủ đã đề xướng lên quan điểm “Nam dược trị Nam nhân” qua tác phẩm Nam dược thần hiệu (được bổ sung và in lại năm 1761).

Tuy nhiên, phải đến thời Hậu Lê, thì toàn bộ những lý luận, học thuật của Trung Quốc và Việt Nam mới được tong kết ở mức độ uyên thâm nhất qua tác phẩm Hải Thượng Y Tôn Tâm lĩnh của Lê Hữu Trác (1720 – 1791).
Trong các triều đại trước, nhà cầm quyền chỉ quan tâm đến việc phục vụ sức khoẻ cho vua, quan và quân đội, còn việc chăm lo sức khoẻ của nhân dân lao động thì mặc cho tư nhân hoặc các tổ chức tôn giáo phụ trách. Chỉ đến thời nhà Hồ (1400 — 1406), Hồ Hán Thương mới lập Quảng Tế Thự để chữa bệnh cho dân và giao cho thầy thuốc Nguyễn Đại Năng phụ trách.

Đặc biệt, dưới thời nhà Lê (1261) ngoài việc lập ra Y học huấn khoa để đào tạo thầy thuốc, chính quyền còn ban hành bộ luật Hồng Đức với những qui định về Y đức (điều 541), về quản lý vệ sinh thực phẩm (điều 420) và công tác Pháp y trong bộ sách “Nhân thân kiếm tra nghiệm pháp”.

2.3. Thời Lê Mạc – thời Tây Sơn (1428 – 1802)
Ngoài tác phẩm kinh điển vĩ đại của Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác còn có thêm:
– Nam Dược của Nguyễn Hoành (Tây Sơn) giới thiệu 500 dược thảo và 130 dược liệu từ khoáng vật và động vật.
– Liệu dịch phương pháp toàn tập viết về bệnh truyền nhiễm; Hô Nhi phương pháp tổng lục viết về Nhi khoa và Lý Am phương pháp thông lục viết về Phụ khoa của Nguyễn Gia Phan (1784 – 1817).
Cũng trong giai đoạn này Việt Nam, mà cụ thể là xứ Đàng Trong đã có giao lưu kinh tế với các nước trong vùng Đông Nam Á và qua đó chúng ta đã trao đổi Thổ nhân sâm, Ngưu tất, Phục linh, Xuyên sơn giáp, Quy bản, Thuyền thoái để nhập Trầm hương, Kỳ nam, Sừng tê giác.

3. THỜI CẬN ĐẠI (THẾ kỷ XVII – thế kỷ XX SAU CN)
3.1. Thời Nguyễn (1802 – 1884)

Quản lý y tế về mặt nhà nước không có gì khác so với thời Lê, về mặt học thuật của ygia Việt Nam vẫn tiếp tục công việc biên tập, trước tác, trong đó có học tập ít nhiều kinh nghiệm của y gia Trung Quốc, cụ thể:
– Xuân Đình y án kinh trị chủ chứng chuyên về bệnh ôn dịch và thời khí của Lê Kinh Hạp.
– Thạch nha kính bàn về phép xem lưỡi của Dương Khải.

3.2. Thời Pháp thuộc (1884 – 1945)
Y học cổ truyền Việt Nam bước vào thế kỷ XX, khi mà triều đình nhà Nguyễn đã ký hiệp ước HARMAND (25/08/1883) biến Việt Nam thành một nước thuộc địa.
Từ năm 1894 – 1906, các Ty lương y đều lần lượt bị giải tán để thay thế” bằng bệnh viện hoặc bệnh xá dưới quyền lãnh đạo của thanh tra y tế Đông Dương.
Năm 1920, nhà cầm quyền Pháp hạn chế số ngưòi hành nghề Đông y ở Nam bộ không được quá 500 người.
Năm 1943 lại ký nghị định bổ sung nhằm hạn chế hành nghề của giới Đông y bằng cách không cho sử dụng những dược liệu có hoạt tính mạnh như Phụ tử, Ba đậu chế…

Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Hội Y học Trung kỳ (thành lập 14/09/1936) đã mở lớp huấn luyện đào tạo lương y, cùng với Hội Việt Nam Y Dược học ở Bắc kỳ và Hội Y học ở Nam kỳ hợp lực đoàn kết y giới Việt Nam để chấn hưng y học cổ truyền dân tộc và đấu tranh chống chủ trương đàn áp y học cổ truyền của thực dân Pháp.
Trong giai đoạn này, ngoài những tác phẩm y học biên soạn bằng chữ Hán Nôm như:
– Vệ sinh yếu chỉ (1901) của Bùi Văn Trung ở Nam Định.
– Bí truyền tập yếu (1906) của Lê Tư Thúy ở Hà Nam.
– Y thư lược sao (1906) của Vũ Đình Phu.
– Tứ duy tập (1910) của Đỗ Thế” Hồ.
– Trung Việt Dược tính hợp biên gồm 1500 vị thuốc của Đinh Nho Chấn.

Còn có những tài liệu y học viết bằng chữ Quốc ngữ:
– Việt Nam Dược học của Phó Đức Thành.
– Nam Dược bộ của Nguyễn An Cư.
– Y học tùng thư của Nguyễn An Nhân.
Đã góp phần phổ cập và bảo tồn nền y dược cổ truyền trong nhân dân.

Vui lòng đợi ...

Đặt mua sản phẩm

Xem nhanh sản phẩm